Loại hình: Nghệ thuật trình diễn
Không gian địa lý: Là các tỉnh vùng châu thổ Bắc bộ
Thời gian tổ chức: Sân đình và trên sân khấu
Chủ nhân của di sản: Cư dân trồng lúa nước vùng Châu thổ Bắc Bộ
Nhận diện di sản: Trong kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc, chèo là một loại hình sân khấu kịch hát đậm đà tính dân tộc, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của hàng loạt yếu tố: hát, múa, nhạc, kịch mang tính nguyên hợp vô cùng độc đáo. Nhạc cụ chủ yếu của chèo là trống chèo. Chèo là một hình thức sân khấu tổng hợp, ở đó giá trị của lời ca được kết hợp hài hoà với tính chất của các làn điệu, đặc biệt là sự kết hợp với diễn xuất, nghệ thuật hát và sự du dương, chuẩn mực của hệ thống nhạc đệm, đã làm cho cái hay, cái đẹp rất riêng của nghệ thuật chèo còn lưu truyền cho đến ngày nay. Nghệ thuật chèo là một di sản văn hoá quý báu, được hình thành bởi sự kết tinh những tinh hoa của văn hoá dân tộc. Tính dân tộc của nghệ thuật chèo là sự tổng hoà nhiều yếu tố như: bản trò, âm nhạc, làn điệu và nghệ thuật múa. Chính nhờ yếu tố tổng hoà này mà chèo luôn phản ánh chân thực đời sống xã hội trong mọi thời điểm của lịch sử.
Chèo sân đình, còn được gọi là chèo cổ: Là loại hình chèo cổ của những phường chèo xưa, thường được biểu diễn ở các sân đình, sân chùa, sân nhà các gia đình quyền quý. Sân khấu chèo sân đình thường chỉ là một chiếc chiếu trải giữa sân, đằng sau treo chiếc màn nhỏ, diễn viên và nhạc công ngồi hai bên mép chiếu tạo dàn đế. Chèo sân đình diễn theo lối ước lệ, cảnh trí chỉ được thể hiện theo ngôn ngữ, động tác cách điệu của diễn viên. Đạo cụ của người diễn hay sử dụng là chiếc quạt. Trên đường xâm nhập ngày càng sâu vào mọi mặt sinh hoạt đời thường của bà con thôn xóm, những người làm chèo đã nhanh chóng kịp thời chuyển địa điểm diễn qua sân đình, từ lòng đình hoặc thềm đình quay ra ba phương sáu hướng, lấy đấy làm khán trường ngoài trời rộng rãi phóng khoáng. Cứ thế, dần hình thành cả loạt nguyên tắc kịch thuật linh hoạt độc đáo, mà nhiều nhà chuyên môn gọi là sân khấu ba mặt.
Xưa, hát chèo được sáng tác ngẫu hứng, các nghệ nhân thường trải chiếu hát ở sân đình, sân chùa - nơi diễn ra những sinh hoạt tín ngưỡng cộng đồng. Vì vậy, dân gian còn gọi là chiếu chèo. Dần dần nghệ thuật hát chèo được phát triển một cách bài bản, trong một vở chèo luôn luôn có những mâu thuẫn , xung đột, để dẫn đến những đoạn giải quyết đầy tính nhân văn. Tuy hát chèo đã được sân khấu hoá nhưng những chiếu chèo truyền thống ở làng quê vẫn tồn tại và gắn liền với đời sống của người nông dân.