1. Phân loại di sản phi vật thể: Nghề thủ công truyền thống.
2. Không gian địa lý: Làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
3. Thời gian: Nghề tranh dân gian được người dân Đông Hồ làm quanh năm, tập trung từ tháng Tám đến tháng Chạp là mùa tranh Tết.
4. Chủ nhân di sản: Người dân làng Làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
5. Nhận diện di sản: Trong số các dòng tranh dân gian Việt Nam được biết đến như Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Nội - Hà Tây cũ), Đông Hồ (Bắc Ninh), làng Sình (Huế)…, tranh Đông Hồ nổi bật nhờ gắn liền với làng quê thôn xóm, với đời sống bình dị của người dân nông thôn, gần gũi với cộng đồng người dân Việt. Đây là cái nôi của dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc cổ xưa nhất của vùng đất Kinh Bắc, được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến.
Tranh Đông Hồ được in trên giấy dó, một loại giấy được làm thủ công từ nguyên liệu là cây dó mọc trên rừng. Thường tranh Đông Hồ chỉ giới hạn ở bốn màu. Người làng Hồ đã biết vận dụng, chắt lọc từ những chất liệu thiên nhiên để tạo nên những sắc màu truyền thống vừa tươi vừa có độ bền màu. Tranh Đông Hồ được vẽ theo dạng in lại qua những bản khắc. Để có bản khắc đạt đến độ tinh xảo, người vẽ mẫu và người khắc ván phải có lòng yêu nghệ thuật và trình độ kỹ thuật cao. Tranh Đông Hồ có đến 180 loại được phân thành 5 loại chính gồm tranh thờ, tranh lịch sử, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt và truyện tranh.
Hội làng Đông Hồ vào rằm tháng ba âm lịch. Trong ngày hội làng có những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ… Trước kia tranh Đông Hồ được làm ra chủ yếu phục vụ cho dịp tết Nguyên đán, người dân mua tranh về dán trên tường để trang trí trong dịp tống tiễn năm cũ và chào đón năm mới. Tranh làng Hồ đã được nhiều người coi như đặc sản của xứ Kinh Bắc. Ngày nay, nhiều du khách trong và ngoài nước đã đến Đông Hồ không chỉ để tham quan tìm hiểu và chọn mua, mà còn nhằm nghiên cứu về nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ.
HỒ SƠ ỨNG CỬ QUỐC GIA
VÀO DANH SÁCH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
CẦN BẢO VỆ KHẨN CẤP
NGHỀ LÀM TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
BÁO CÁO KIỂM KÊ
Hà Nội – 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU |
3 |
KẾT QUẢ KIỂM KÊ |
5 |
I. Nhận diện tên gọi, không gian thực hành và chủ thể di sản |
5 |
1. Tên gọi của di sản |
5 |
2. Loại hình |
5 |
3. Không gian văn hóa thực hành di sản |
5 |
4. Chủ thể văn hóa |
8 |
5. Quá trình ra đời và tồn tại của nghề tranh dân gian Đông Hồ |
17 |
II. Hình thức biểu hiện, quy trình thực hành di sản |
17 |
1. Hình thức biểu hiện |
17 |
2. Quy trình làm tranh |
18 |
3. In tranh |
20 |
4. Dụng cụ in tranh |
22 |
5. Các công đoạn in tranh |
23 |
6. Phơi tranh |
24 |
7. Các sản phẩm vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình thực hành nghề |
24 |
III. Giá trị tranh dân gian Đông Hồ |
24 |
1. Những giá trị nội dung tư tưởng |
24 |
2. Những giá trị nghệ thuật của tranh dân gian Đông Hồ |
26 |
IV. Hiện trạng và sự biến đổi của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ |
27 |
1. Hiện trạng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ |
27 |
2. Những thay đổi của tranh dân gian Đông Hồ hiện nay |
29 |
3.Thực trạng và nguy cơ mai một của nghề làm tranh Đông Hồ |
29 |
V. Vai trò của nhà nước trong bảo vệ di sản Nghề làm tranh Dân gian Đông Hồ |
32 |
VI. Nỗ lực bảo vệ và phát huy giá trị di sản Nghề làm tranh Đông Hồ dân gian của cộng đồng |
34 |
VII. Một số giải pháp bảo vệ và phát huy giá trị nghề làm tranh dân gian Đông Hồ |
37 |
1. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản |
37 |
2. Tôn vinh các nghệ nhân người có công khôi phục và duy trì nghề làm tranh |
38 |
3. Mở rộng tiêu thụ sản phẩm ở trong và ngoài nước |
38 |
4. Trao truyền và giáo dục di sản |
39 |
5. Kiểm kê, tư liệu hóa, nghiên cứu khoa học: |
39 |
6. Tăng cường nguồn nguyên liệu tự nhiên và cây trồng: |
39 |
7. Nâng cao chất lượng bảo quản ván in và tranh Đông Hồ |
39 |
KẾT LUẬN |
39 |
TÀI LIỆU THAM KHẢO |
41 |
BÁO CÁO KẾT QUẢ KIỂM KÊ KHOA HỌC
NGHỀ LÀM TRANH DÂN GIAN ĐÔNG HỒ
Thời gian: 4/2018-10/2019 và 01-2/2024
Địa điểm: Khu phố Đông Khê, phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Cơ quan tư vấn: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam
Sự tham gia của các nghệ nhân: Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Đăng Tâm, Nguyễn Hữu Quả, Nguyễn Hữu Hoa, Nguyễn Thị Oanh.
Nhiệm vụ kiểm kê:
KẾT QUẢ KIỂM KÊ
I. Nhận diện tên gọi, không gian thực hành và chủ thể di sản
1.Tên gọi của di sản
Tên gọi chính thức bằng tiếng Việt: Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
Tên gọi chính thức bằng tiếng Anh: The Craft of Making Đông Hồ Folk Woodblock Printings
Các tên gọi khác: Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, Tranh làng Hồ, Tranh Đông Hồ, Tranh dân gian Đông Hồ.
2. Loại hình
Căn cứ Khoản 1, Điều 4, Chương II của thông tư số 04/2010/TT- BVHTTDL ngày 30-6-2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể thì nghề làm tranh dân gian Đông Hồ thuộc về loại hình “Nghề thủ công truyền thống”.
3. Không gian địa lý, văn hóa và đặc điểm dân cư thực hành di sản
- Về vị trí địa lý, làng Đông Hồ (nay là khu phố Đông Khê) nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 35km. Khu phố Đông Khê nằm bên dòng sông sông Đuống. Trước đây làng Đông Hồ nằm sát bờ sông Đuống, chỉ cách sông một con đê, từ đó mà có câu "Có sông tắm mát có nghề làm tranh".
- Tên gọi của vùng đất sản sinh ra Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là làng Đông Hồ, nay là khu phố Đông Khê, phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Đông Khê bao gồm 4 đội sản xuất (còn gọi là 4 xóm): Đội 1 và đội 2 thuộc làng Đông Hồ xưa; đội 3 thuộc làng Khê cũ; đội 4 thuộc làng Đạo Tú cũ.
- Năm 2024, khu phố Đông Khê có 2.350 nhân khẩu của 520 hộ gia đình với diện tích đất canh tác là 224.000m2. Dân số ít nhưng lại thuộc tới 17 dòng họ khác nhau. Đó là các dòng họ Nguyễn (Nguyễn Đăng, Nguyễn Hữu, Nguyễn Nhân, Nguyễn Bá, Nguyễn Thế, Nguyễn Ngọc, Nguyễn Đức, Nguyễn Văn), họ Trần, họ Hà, họ Dương, họ Lê, họ Lý, họ Vương và Nguyễn Khắc. Hiện nay, chỉ còn hai dòng họ Nguyễn Đăng và Nguyễn Hữu thuộc 3 gia đình còn duy trì và phát triển Nghề làm tranh Dân gian Đông Hồ.
- Đây là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, nổi tiếng với dòng tranh dân gian Đông Hồ, phản ánh sinh động văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Đông Khê còn có những thực hành di sản văn hóa tiêu biểu của vùng Kinh Bắc, nơi lưu giữ dân ca Quan họ, lễ hội làng truyền thống như lễ hội đình làng Đông Hồ thờ cúng thành hoàng, tôn vinh nghề làm tranh, làm mã.
4. Chủ thể di sản, những gia đình, cá nhân có vai trò chủ chốt trong thực hành, bảo vệ tranh Đông Hồ
- Gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế
Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế (sinh năm 1936), sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm tranh lâu đời ở làng Đông Hồ. Ông học nghề với cha từ bé, là đời thứ 20 đã kế tiếp truyền thống gia đình làm tranh. Gia đình ông sở hữu khoảng 1.200 ván khắc, trong đó có 100 ván khắc cổ, ván cổ nhất có tuổi đời 200 năm, ván mới nhất cách nay khoảng 50 năm.
Hiện nay, ông đã truyền nghề cho các con trai, con gái, con dâu, con rể, cháu nội, cháu ngoại, tổng số hơn hai mươi người. Gia đình con trai là Nguyễn Đăng Tâm (sinh năm 1972) cùng vợ là Nguyễn Thị Tố Tâm (sinh năm 1974) thành thục nghề, đảm đương các công đoạn làm tranh, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tranh.
- Gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam (sinh năm 1930, đã mất năm 2016), sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm tranh lâu đời. Từ nhỏ ông đã đam mê những sắc màu tự nhiên của tranh dân gian Đông Hồ. Ông theo học nghề tranh từ lúc lên 5 tuổi. Khi làng thành lập Hợp tác phường sản xuất tranh Đông Hồ, ông tham gia với tư cách Chủ nhiệm hợp tác xã từ năm 1967 đến năm 1970. Từ năm 1970 đến năm 1989 ông vừa là đội trưởng đội sản xuất tranh, trực tiếp chỉ đạo sản xuất và kỹ thuật, vừa nghiên cứu, sưu tầm, phục chế, sáng tác tranh. Ông đã sưu tầm, bảo tồn những bản khắc cổ như là đồ gia bảo, truyền lại các ván khắc cho 2 con trai theo nghề là Nguyễn Hữu Hoa và Nguyễn Hữu Quả.
Hiện nay, gia đình người con trai cả là nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa (sinh năm 1958) cùng vợ là nghệ nhân Nguyễn Thị Oanh (sinh năm 1960) cùng vợ chồng con trai cả là Nguyễn Hữu Tảo (sinh năm 1982) và Lý Thị Thương (sinh năm 1992) tiếp tục làm nghề, quảng bá và tiêu thụ sản phẩm tranh. Gia đình thừa hưởng khoảng 900 ván khắc bao gồm các ván sưu tầm, phục chế và sáng tác mới, trong đó có khoảng 50 ván khắc cổ, có khoảng 150 loại tranh truyền thống và 30 loại tranh mới sáng tác.
Gia đình người con trai thứ hai là nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả (sinh năm 1963). Anh là người được cha tin tưởng vì vừa có năng khiếu, tư chất làm nghề, vừa yêu nghề, hội đủ các yếu tố để ông tín nhiệm truyền nghề. Anh theo học nghề tranh từ bé. Với lòng tâm huyết với nghề, anh đã học thêm chữ Hán để hiểu được ý nghĩa của các chữ viết trong tranh.
Hiện nay, gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả đang lưu trữ và sở hữu khoảng 1.000 bản khắc tranh các loại, trong đó có 600 bản vốn do người cha lưu giữ và trao truyền lại, 50 bản cổ, 12 bộ tranh Tứ bình, 25 bộ tranh chữ, hơn 100 bộ tranh khắc mới cùng hàng trăm bản khắc tranh đơn như Cưỡi trâu thổi sáo, Hứng dừa, Vinh quy, Lợn đàn. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả cùng vợ Nguyễn Thị Dung (sinh năm 1965), con trai Nguyễn Hữu Đạo (sinh năm 1990), và con dâu Vũ Thu Trang (sinh năm 1992) tiếp tục truyền thống gia đình sản xuất, quảng bá và tiêu thụ tranh.
II. Các loại tranh và quy trình thực hành làm tranh Đông Hồ
1. Các loại hình và chủ đề của tranh Đông Hồ
Theo nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam, tranh dân gian Đông Hồ có bốn loại chính gồm: Tranh truyền thống vẽ bằng tay (tranh in nét và vẽ thủy mặc, vờn màu); Tranh vừa in vừa vẽ; Tranh in bằng ván khắc gỗ; Tranh khắc gỗ, trong đó phổ biến nhất là tranh đen trắng (tranh vẽ thủy mặc, vờn màu) và tranh màu được in bằng bản khắc gỗ. Các sản phẩm tranh này những đặc sản riêng của tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng và hiện vẫn còn được sản xuất và tiêu thụ, tuy số lượng hạn chế. Về kỹ thuật làm tranh in bằng ván khắc gỗ, tranh Đông Hồ chủ yếu là tranh khắc gỗ in tay, hay còn được gọi là tranh in mộc bản, tức là loại tranh khắc bằng ván gỗ, dùng để in.
Tranh dân gian Đông Hồ tập trung phản ánh xoay quanh 5 chủ đề: Tranh chúc tụng; tranh lịch sử, tranh truyện/sự tích, tranh thờ, tranh sinh hoạt. Ngày nay, một số mẫu mã mới được sáng tác cùng với các sản phẩm mới như lịch, quà tặng, tranh dương bản làm bằng gỗ dùng trang trí nhà cửa, nhà hàng, khách sạn, công sở, làm đồ lưu niệm cho du khách như một biểu hiện đậm nét của bản sắc văn hóa Việt.
2. Quy trình làm tranh
- Sáng tác mẫu tranh
Khâu đầu tiên của việc làm tranh là sáng tác mẫu tranh, hay còn gọi là vẽ mẫu. Đây là khâu quan trọng và khó nhất trong quy trình kỹ thuật làm tranh. Để vẽ một mẫu tranh, các nghệ nhân phải mất hàng tháng trời tìm tòi ý nghĩa, nội dung, đề tài và hình thức thể hiện.
Các dụng cụ vẽ mẫu tranh gồm có bút lông, mực nho (hay mực tàu) và giấy bản mỏng. Khi vẽ mẫu tranh, nghệ nhân dùng bút lông chấm vào mực tàu đã pha và vẽ hình mẫu lên các bản giấy mỏng. Sau đó, giấy mẫu được dán vào mặt trước của tấm gỗ, và nét vẽ sẽ thấm ra mặt sau tờ giấy, nhờ đó người thợ khắc mới khắc được hình vẽ lên bản gỗ.
- Khắc ván tranh
Sau khi vẽ mẫu xong, các nghệ nhân đem mẫu khắc vào bản gỗ (ván khắc). Đây là công đoạn khắc ván in tranh, hay thường được gọi ngắn gọn là khắc ván. Ván in được sử dụng lâu dài, nên người làm tranh phải chọn loại gỗ tốt, bền và ổn định nét. Ván in được chia làm hai loại là ván in nét và ván in màu.
Ván in nét thường được làm bằng gỗ thị. Ván in nét dùng để phác các đường nét cho bức tranh. Mỗi bức tranh chỉ cần 1 ván in nét. Sau khi hình mẫu được tạo ra và khắc xong, đó là bản nét hoàn thiện.
Ván in màu dùng để in các mảng màu khác nhau trong tranh. Mỗi lần chỉ in một màu, khi màu khô mới in sang màu khác. Do vậy, tranh có bao nhiêu màu, thì có bấy nhiêu ván in. Đây là các ván nhỏ hơn ván nét, người thợ khắc theo từng mảng màu có trên từng tờ tranh (màu xanh, đỏ, vàng). Ván in màu sẽ được trực tiếp dùng in lên giấy điệp.
Đối với các gia đình làm tranh, ván in trở thành vật gia bảo, tài sản quý báu truyền thừa giữa các thế hệ. Đây là tập tục mang tính văn hóa xã hội của làng nghề, thể hiện bản sắc văn hóa của gia đình, dòng họ.
Dụng cụ chính để khắc ván in là mũi đục, hay còn gọi là ve bằng thép cứng, và dùi đục dùng để gõ đục (so sánh với tranh Hàng Trống dùng dao khắc). Mỗi bộ ve khắc ván gồm khoảng 40 chiếc. Ngoài mũi đục và dùi đục, còn có dao khắc mũi mài một mả (vát một bên má dao).
Muốn có bản khắc gỗ đẹp, ngoài việc chọn được gỗ tốt thì tài năng người chạm khắc giữ vai trò quyết định. Khi khắc ván, người thợ khắc cầm ve (hay đục) bằng tay trái, đặt lưỡi đục lên cạnh nét vẽ, tay phải cầm dùi đục đập mạnh lên đầu cán ve. Khắc nét thẳng thì dùng ve lưỡi thẳng, khắc nét cong thì dùng ve lòng máng. Các loại đục khác nhau giúp cho người nghệ nhân có thể tạo được nhiều nét khắc to, nhỏ khác nhau, khỏe mà vẫn tinh tế, có hồn.
3. In tranh
- Nguyên vật liệu in tranh
+ Giấy in: Giấy in tranh là loại dó và quét lớp bột điệp lên trên. Giấy dó được làm từ vỏ cây dó, lấy ở trong rừng. Ưu điểm của giấy dó là nhẹ, mỏng, mềm, dễ hút màu, giữ được rất lâu, chống được vi khuẩn, mối mọt.
+ Màu in và cách tạo màu: Màu dùng để in tranh Đông Hồ là màu thuốc cái - tức là các màu được chế tác từ nguyên liệu và thảo mộc tự nhiên, được chế biến theo kỹ thuật thủ công.
Mỗi màu được tạo ra từ một quy trình kỹ thuật với phương tiện hết sức thô sơ như:
Màu đen được chế từ than lá tre, than rơm. Lá tre phải là lá vừa rụng, còn vàng đem đốt. Khi đốt phải lựa chiều gió, không được cho gió bay ngược lại. Đốt đến đâu vẩy nước tắt đến đấy. Màu đen lá tre dùng để in nét với đặc tính màu xốp nhẹ, là đường biên giữa các mảng màu, tạo cho tranh sự chắc, khỏe...
Màu xanh chàm lấy từ lá chàm, ngâm cho đến khi nát rữa, đánh tơi nổi bọt, vớt lấy bọt chàm nổi ở trên mặt nước, gạn lọc kỹ cho hết chất vôi, cô đặc thành màu.
Màu vàng hòe được chế ra từ hoa của cây hòe hay hạt dành dành. Để lấy chất vàng các nghệ nhân phải sao vàng, đun sắc kỹ, công phu, đều lửa. Màu vàng hòe trong tranh dân gian Đông Hồ tôn thêm vẻ cao quý của nhiều loại tranh chúc tụng, cảnh vật.
Màu đỏ son chế tạo từ bột sỏi son, tán nhỏ mịn thành bột dùng in tranh và quét nền tranh.
Màu trắng điệp lấy từ vỏ sò điệp, tán nhỏ mị.
Các màu trên pha trộn với hồ nếp quấy kỹ thành chất màu đặc quánh rất dính, vừa dễ thấm vào giấy, vừa chịu được ánh sáng, ít bị phai màu.
4. Dụng cụ in tranh
5. Các công đoạn in tranh
Tranh Đông Hồ được in theo phương thức xấp ván, nghĩa là cầm ván in rập xuống bìa màu, sao cho màu thấm đều vào hình khắc trên ván rồi in lên giấy điệp, lấy miếng xơ mướp xoa đều lên mặt sau của giấy để màu hoặc nét in đều lên giấy.
Trong một bức tranh thường có 5 màu, người ta thường in theo thứ tự sau: Đầu tiên là màu đỏ, sau đó là màu xanh, tiếp theo là màu vàng rồi đến màu trắng, cuối cùng là in nét bằng màu đen.
Để cho các mảng màu in ăn khớp vói nhau, mỗi tấm ván in đều có hai điểm cữ đánh dấu ở cạnh ván in. Khi in, hai điểm này sẽ để lại dấu chấm tròn nhỏ trên tranh. Cách làm này đảm bảo cho việc in các màu xen kẽ nhau, không chồng lên những mảng màu in trước.
- In nét: Sau khi in xong các mảng màu, người nghệ nhân in ván nét đen, hay còn gọi là in nét để viền các mảng màu. Công việc này khó nhất ở chỗ làm sao cho các nét viền phải đều tay, không được chỗ đậm, chỗ nhạt. Màu in phải “no,” nghĩa là mảng màu đều, không bị sót, khuyết.
III. Giá trị của Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
- Nghề làm tranh là nghề thủ công truyền thống đã đi vào lịch sử, đời sống văn hóa, xã hội của làng Đông Hồ, gắn liền với tên làng, tên nghề và di tích “Đình Tranh” thờ thành hoàng làng - nơi tổ chức lễ hội hàng năm.
- Ván khắc gỗ được coi là đồ gia bảo, là công cụ sinh kế của gia đình được truyền từ đời trước qua đời sau.
- Nghề làm tranh có vai trò kết nối các thành viên trong gia đình và cộng đồng trong và ngoài làng. Việc trao đổi, mua bán giấy dó, nguyên vật liệu tự nhiên làm giấy điệp, làm màu giữa những thợ thủ công ở các làng như làng Đống Cao (nay là khu phố Đống Cao, phường Phong Khê) và các vùng cung cấp nguyên liệu tự nhiên ở Bắc Bộ hình thành một mạng lưới xã hội của nghề làm Tranh Đông Hồ. Hiện nay, tranh dân gian Đông Hồ vẫn có một lượng nhỏ khách hàng sử dụng trong trang trí nhà cửa, nhà hàng, khách sạn, công sở, làm đồ lưu niệm cho du khách như một biểu hiện đậm nét của bản sắc văn hóa Việt.
- Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ tạo ra những bức tranh như là những tác phẩm nghệ thuật, chứa đựng những giá trị văn hóa sâu sắc của cộng đồng người Việt ở châu thổ Bắc Bộ. Mỗi bức tranh thể hiện các chủ đề khác nhau, phản ánh văn hóa, tín ngưỡng, đạo đức xã hội. Về nghệ thuật, tranh Đông Hồ tiêu biểu cho lối khắc họa không gian ước lệ, tượng trưng, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo hình và làm nổi bật giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Chính những đặc trưng này của sản phẩm tranh Đông Hồ càng làm tăng thêm giá trị và chức năng của nghề truyền thống, phản ánh bản sắc văn hóa của người Việt qua nhiều thế hệ.
IV. Thực trạng và nguy cơ mai một của Nghề làm tranh Đông Hồ
4.1.Thực trạng
Hiện nay, hai dòng họ với ba hộ gia đình có xưởng làm tranh dân gian Đông Hồ tại nhà, sản xuất tranh thường xuyên để bán và làm theo đơn đặt hàng. Tuy nhiên, số lượng đơn đặt hàng không nhiều và không liên tục, việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường hạn chế đã tác động trực tiếp đến nguy cơ mai một nghề làm tranh dân gian.
Hiện nay, tổng số chỉ có 8 nghệ nhân trong ba hộ gia đình hiện giữ vai trò là thợ cả, chịu trách nhiệm chính thực hiện các khâu quan trọng và giữ vai trò quyết định trong quá trình làm tranh của gia đình như: Sáng tạo chủ đề mới, đa dạng hóa sản phẩm, chỉ đạo sản xuất, giám sát chất lượng các khâu làm tranh. 8 nghệ nhân này cũng là nguồn lực chính trong trao truyền nghề trong gia đình và cho những người ngoài quan tâm đến di sản.
Hai dòng họ có 45 người, nhưng chỉ có khoảng 30 người làm được tranh. Trong đó 20 người chuyên làm tranh, số còn lại coi nghề làm tranh chỉ là nghề phụ, tham gia vào các công đoạn sản xuất tranh khi có thời gian nhàn rỗi. Các cháu thuộc thế thệ thứ 4 còn nhỏ, đi học. Số lượng người thành thục nghề quá ít để phát triển bền vững nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.
Nghề làm tranh không đảm bảo sinh kế cho gia đình, cũng như những khó khăn về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các gia đình nghệ nhân hiện đang làm nghề đã tác động trực tiếp đến sự phát triển bền vững của nghề làm tranh.
4.2. Nguy cơ mai một nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
Mặc dù có sự nỗ lực của chính quyền hỗ trợ về chính sách, tài chính, cho thuê đất xây dựng xưởng làm tranh, cũng như ý thức rất rõ về việc duy trì và phát triển bền vững nghề làm tranh của hai dòng họ Nguyễn Đăng, Nguyễn Hữu và cộng đồng khu phố Đông Khê, nghề làm tranh Đông Hồ vẫn đang đối diện với những nguy cơ mai một và cần phải bảo vệ khẩn cấp. Cụ thể, báo cáo làm rõ một số nguy cơ chính sau: tiêu thụ sản phẩm rất hạn chế; người làng chuyển đổi nghề; nguồn nhân lực rất ít; nguyên liệu tự nhiên và cây trồng suy giảm; thiếu hụt phương tiện bảo quản ván khắc và tranh.
- Tiêu thụ sản phẩm hạn chế: Tập tục mua tranh vào Tết Trung thu, tranh treo ở không gian thờ cúng trong gia đình, thú chơi tranh dân gian ngày Tết không còn do nhu cầu thị hiếu của người dân trong đời sống đương đại. Chợ Đình Tranh ở làng cũng như việc bán tranh ở các chợ truyền thống cũng không còn. Hơn nữa, người dân không mua tranh, thay tranh hàng năm như trước kia, mà tranh hiện nay đã được đóng khung treo lâu dài trong nhà.
- Chuyển đổi nghề: Trong thời kỳ Đổi mới, kinh tế thị trường phát triển, người dân được tự do thực hành tôn giáo tín ngưỡng. Nghề làm mã dùng trong các nghi lễ được khôi phục và việc mua bán sôi động mặt hàng này đã thu hút đông đảo các hộ gia đình chuyển sang làm mã nên bỏ nghề làm tranh. Hiện nay ở khu phố Đông Khê có tới 99% hộ làm hàng mã quanh năm, dẫn đến giảm nguồn lực trong làng nghề tham gia làm tranh dân gian truyền thống.
- Hạn chế về nguồn nhân lực: Hiện nay, những người trẻ trong làng Đông Khê không mặn mà với nghề làm tranh, có xu hướng đến sống ở các thành phố và tham gia làm việc cho nhà nước, công ty, hoặc làm hàng mã tiêu thụ tốt, có thu nhập cao hơn. Số lượng người làng tham gia làm tranh ngoài ba hộ gia đình hầu như không có ai. Hạn chế nguồn lực có thể coi là một trong những nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc duy trì và phát triển nghề làm tranh.
- Hạn chế về nguyên liệu tự nhiên và cây trồng: Cây dó là nguyên liệu sản xuất giấy dó được trồng ở các tỉnh Bắc Cạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Hiện nay, chỉ có 4 hộ gia đình ở làng Đống Cao, thành phố Bắc Ninh sản xuất giấy dó. Việc sản xuất các loại màu từ sỏi son, vỏ sò điệp, hoa và nụ hòe, quả dành dành, lá chàm, lá tre đòi hỏi nhiều nhân công và kỹ thuật, mà số lượng người theo nghề ít. Điều này dẫn đến giá thành sản phẩm cao, khiến cho một số nghệ nhân đã dùng giấy in và màu kém chất lượng, ảnh hưởng chất lượng của tranh, cũng như việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Thiếu kỹ thuật và phương tiện bảo quản: Ván in được tổ tiên lưu truyền cho con cháu, như là một tập tục trong gia đình, nhưng một số lượng ván in đã bị hỏng do chiến tranh, thời gian, cháy, lũ lụt và độ ẩm cao. Số ván in được sưu tầm, lưu giữ ở các gia đình nghệ nhân không có phương tiện, kỹ thuật bảo quản nên nguy cơ bị hủy hoại rất cao. Chất lượng một số những ván in mới không được tốt như những ván cổ được truyền lại.
V. Vai trò của nhà nước trong bảo vệ di sản Nghề làm tranh Dân gian Đông Hồ
- Năm 1967, chính quyền xã Song Hồ ban hành Quyết định thành lập Hợp tác xã sản xuất tranh Đông Hồ tập hợp tất cả các hộ gia đình làm tranh cùng sản xuất và xuất khẩu tranh sang các nước Đông Âu. Đến năm 1990, Hợp tác xã giải thể và các hộ gia đình chuyển sang làm vàng mã.
- Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU ngày 25 tháng 5 năm 1998 về phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, trong đó có nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Đồng thời, sau đó hai năm, ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TU ngày 03 tháng 02 năm 2000 về xây dựng và phát triển khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp làng nghề trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, hỗ trợ một số gia đình khôi phục nghề làm tranh.
- Nhà nước phong tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân cấp tỉnh cho 9 nghệ nhân, trong đó có 8 nghệ nhân còn làm tranh trong 3 hộ gia đình, bao gồm thành viên dòng họ Nguyễn Đăng Chế (sinh năm 1936), con trai là Nguyễn Đăng Tâm (sinh năm 1972), con gái Nguyễn Minh Phương (sinh năm 1969), và con dâu Trần Thị Tố Tâm (sinh năm 1974); và thành viên dòng họ Nguyễn Hữu Sam (sinh năm 1930 - đã mất), con trai Nguyễn Hữu Hoa (sinh năm 1958) và con dâu là Nguyễn Thị Oanh (sinh năm 1960); gia đình Nguyễn Hữu Quả (sinh năm 1963) và con trai Nguyễn Hữu Đạo (sinh năm 1990).
- UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành Quyết định phục hồi và củng cố Câu lạc bộ nghệ nhân tranh dân gian làng Đông Hồ. Đồng thời, chính quyền địa phương đã hỗ trợ gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế thực hiện dự án Bảo tồn, phát triển dòng tranh dân gian Đông Hồ với mức kinh phí ban đầu hơn 1 tỷ đồng.
- Năm 2010, chính quyền xã Song Hồ đã đề xuất với tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh cùng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ đạo thực hiện các hoạt động khảo sát, đánh giá thực trạng, tổ chức hội thảo khoa học về nghề làm tranh dân gian Đông Hồ để tìm ra giải pháp hỗ trợ các nghệ nhân duy trì nghề phát triển bền vững.
- Năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành quyết định kiểm kê di sản tranh dân gian Đông Hồ với sự tham gia của các nghệ nhân, người làm nghề. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam được giao nhiệm vụ tư vấn kiểm kê cùng với các nghệ nhân. Kết quả của dự án được xuất bản trong sách Di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, do GS.TS. Từ Thị Loan chủ biên năm 2016.
- Năm 2012, Tranh dân gian Đông Hồ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chính thức ghi danh vào Danh mục quốc gia Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, loại hình Nghề thủ công truyền thống.
- Năm 2013, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh đầu tư hỗ trợ cho 3 nghệ nhân làng tranh Đông Hồ vay số tiền 50 triệu đồng để phục vụ cho việc khắc một số ván tranh quý hiếm.
- Tháng 6 năm 2014, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Ninh ban hành Quyết định số 660/QĐ-UBND, phê duyệt Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, thị xã Thuận Thành, giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến 2030” với tổng kinh phí gần 100 tỷ đồng (4 triệu USD) từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác. Trung tâm này đã hoàn thành, trưng bày, giới thiệu tranh, phục hồi chợ tranh truyền thống vào dịp Tết, thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục, trải nghiệm làm tranh cho học sinh và cho khách tham quan.
- Chính quyền phường Song Hồ tạo mọi điều kiện cho các nghệ nhân thuê đất mở xưởng làm tranh dân gian Đông Hồ.
- Sở Công Thương của tỉnh Bắc Ninh hợp tác cùng với Hiệp hội làng nghề Việt Nam hỗ trợ nghệ nhân mở rộng đầu ra cho sản phẩm, quảng bá tranh trong và ngoài nước.
VI. Nỗ lực bảo vệ Nghề làm tranh Đông Hồ dân gian của cộng đồng chủ thể
6.1.Trao truyền di sản
Nghề tranh dân gian Đông Hồ chủ yếu trao truyền truyền miệng, trực tiếp qua quá trình làm tranh. Những năm vừa qua, hai dòng họ thuộc ba gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa và Nguyễn Hữu Quả trao truyền kỹ thuật làm tranh từ làm ván in, làm màu, làm giấy điệp, in tranh cho các thế hệ con cháu nội, ngoại trong dòng họ, và mở rộng truyền dạy cho các thành viên trong và ngoài cộng đồng.
Đối với dòng họ Nguyễn Đăng, từ nguồn lực chỉ có một người được trao truyền kỹ năng thực hành nghề là nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, trải qua gần bốn chục năm, nghệ nhân đã truyền dạy cho con trai, con gái và dâu, rể, cũng như các cháu nội, ngoại. Cho đến nay, con trai thứ năm là Nguyễn Đăng Tâm cùng vợ là Nguyễn Thị Tố Tâm đã nắm vững mọi kỹ năng nghề, và có khả năng thực hành mọi công đoạn của nghề làm tranh. Khoảng 30 thành viên trong đại gia đình đã đảm nhận được các khâu thuộc các công đoạn của thực hành nghề. Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã trực tiếp mở lớp truyền dạy cho hàng chục học viên từ các địa phương khác về học và thực hành nghề. Tuy tuổi đã cao, hàng năm, ông và con trai Nguyễn Đăng Tâm tổ chức giới thiệu làm tranh cho hàng nghìn học sinh của các tỉnh thành đến trải nghiệm, trao đổi, góp phần nâng cao nhận thức về di sản.
Đối với dòng họ Nguyễn Hữu Sam, sinh thời, ông Nguyễn Hữu Sam trực tiếp truyền dạy kỹ năng nghề cho hai con trai và con gái, con dâu cùng các cháu nội, ngoại trong gia đình. Cho đến nay, hai con trai là Nguyễn Hữu Hoa và Nguyễn Hữu Quả đã trao truyền nghề cho con trai và con dâu, các cháu nội ngoại làm tranh. Đến nay, con trai thứ Nguyễn Hữu Quả cùng con dâu trưởng Nguyễn Thị Oanh là hai nghệ nhân làm tranh có tay nghề cao, am hiểu nghề và có khả năng sáng tạo mẫu mã và sản phẩm mới, phù hợp với thị hiếu đương đại. Gia đình vợ chồng con trai của nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa và Nguyễn Hữu Quả đều có tay nghề tốt, có thể tự lập sản xuất tranh, quảng bá tranh online và tiêu thụ sản phẩm tranh.
6.2. Sản xuất, quảng bá và tiêu thụ tranh
- Năm 2006 gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đầu tư xây dựng khu nhà trưng bày riêng, rộng 120 m2 dành cho việc quảng bá hàng trăm bức tranh theo các kích cỡ khác nhau. Trên phạm vi diện tích đất hơn 5.000m2 của gia đình, nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế xây dựng một gian lớn để in tranh, một gian nhỏ để giã sò điệp và làm màu. Hiện nay, khu xưởng của ông đã được mở rộng, xây dựng thêm các gian nhỏ để cho học sinh, sinh viên các trường đến trải nghiệm làm tranh và tìm hiểu về nghề làm tranh. Đặc biệt, gia đình với sự tư vấn của chuyên gia bảo tàng hoàn thành một bảo tàng tư nhân, giới thiệu lịch sử ra đời, quy trình làm tranh và những công lao trong việc khôi phục và trao truyền nghề cho con cháu trong gia đình.
- Gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa xây dựng phòng khách và trưng bày sản phẩm tranh của gia đình, cải tạo và nâng cấp khu nhà cổ (do nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam giao thừa kế) thành nơi thờ tự và giới thiệu tranh trong khuôn viên rộng 150 m2. Hiện nay, gia đình đã cải tạo tầng 2 của nhà ở thành kho chứa và giới thiệu các bộ ván khắc cổ do người cha Nguyễn Hữu Sam để lại và những mẫu mã mới làm của gia đình.
- Gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả dành tầng 1 rộng khoảng 150 m2 của khu nhà 3 tầng của gia đình làm nơi sản xuất, trưng bày sản phẩm và phục vụ khách đến trải nghiệm, mua tranh.
- Những năm gần đây, ba gia đình nghệ nhân đã quan tâm và đầu tư cho con cháu, tích cực tham gia trao đổi, giao lưu học hỏi kinh nghiệm và đưa sản phẩm tranh tham dự các hội chợ quốc tế ở trong nước cũng như nước ngoài.
- Các nghệ nhân đổi mới phương thức tiếp cận thị trường, bán hàng online, mở rộng thị trường bán tranh và tham gia các chương trình quảng bá trên phương tiện truyền thông, trưng bày tranh trong các bảo tàng, triển lãm, giới thiệu tranh tại các lễ hội, Tết Trung thu, Tết Nguyên đán, sự kiện văn hóa.
VII. Biện pháp bảo vệ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ
1. Xây dựng Chính sách Hỗ trợ nghề làm tranh Dân gian Đông Hồ
- Xây dựng chính sách và kế hoạt phát triển bền vững nghề làm tranh dan gian Đông Hồ, tăng số hộ gia đình, nghệ nhân và người làm tranh
- Chính sách hỗ trợ các hộ gia đình nghệ nhân làm tranh vay vốn và hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm tranh Đông Hồ.
- Chính sách hỗ trợ nghệ nhân sáng tạo những mẫu mã mới, sản phẩm đa dạng đáp ứng thị hiếu người dùng, có khả năng tiêu thụ.
2. Trao truyền và giáo dục di sản
- Các nghệ nhân trong hai dòng họ Nguyễn Hữu và Nguyễn Đăng tiếp tục trao truyền và nâng cao tay nghề cho con cháu và thành viên trong và ngoài cộng đồng.
- Các nghệ nhân tiếp tục phối hợp với các trường đẩy mạnh giáo dục di sản Nghề tranh dân gian Đông Hồ bằng các hình thức tổ chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa tìm hiểu về nghề làm tranh và trải nghiệm làm tranh.
3. Quảng bá và nâng cao nhận thức về di sản
- Các nghệ nhân được sự hỗ trợ của cơ quan quản lý nhà nước và hiệp hội làng nghề tiếp tục quảng bá các sản phẩm tranh Đông hồ trên các phương tiện truyền thông và các sự kiện văn hóa.
- Đẩy mạnh các hoạt động giới thiệu về tranh và trải nghiệm làm tranh tại Trung tâm bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ tại khu phố Đông Khê.
- Hỗ trợ các nghệ nhân tham gia các hoạt động của Hiệp hội làng nghề Việt Nam, các triển lãm mỹ thuật trong nước và quốc tế để quảng bá và tiêu thụ tranh.
4. Tăng cường đầu ra, mở rộng thị trường tiêu thụ, đa dạng hóa sản phẩm
- Nhà nước hỗ trợ các nghệ nhân đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm.
-Tạo điều kiện nghệ nhân trưng bày, giới thiệu, bán tranh Đông Hồ.
- Trợ giúp nghệ nhân với những mẫu mã mới đáp ứng thị hiếu của người dùng.
5. Kiểm kê, tư liệu hóa, số hóa, nghiên cứu khoa học
- Với sự tham gia của các nghệ nhân, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh tiếp tục cập nhật tư liệu kiểm kê hàng năm để đưa lên Hệ thống thông tin quản lý di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
- Các nhà nghiên cứu phối hợp với các nghệ nhân tiếp tục nghiên cứu, cập nhật thông tin, số hóa bằng video, hình ảnh và lời giới thiệu toàn bộ quy trình kỹ thuật Nghề làm tranh Đông Hồ làm tài liệu giới thiệu, quảng bá và hướng dẫn làm tranh.
6. Tăng cường nguồn nguyên liệu tự nhiên và cây trồng
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh phối hợp với chính quyền các cấp xây dựng và triển khai đề án với chiến lược khai thác và dự trữ nguồn nguyên liệu tự nhiên và cây trồng làm giấy dó và màu tự nhiên.
- Hỗ trợ các nghệ nhân khai thác và bảo đảm nguồn dự trữ vỏ sò điệp bị phong hóa ở vùng nước lợ ven biển.
- Hỗ trợ các gia đình, cá nhân sản xuất giấy dó tại làng nghề Đống Cao ở tỉnh Bắc Ninh.
7. Nâng cao chất lượng bảo quản ván in và tranh Đông Hồ
Do khí hậu nhiệt đới nóng và độ ẩm cao, nhiều ván khắc và tranh không được bản quản tốt, bị hư hỏng nhiều. Các hộ gia đinh đang lưu giữ kho ván in cổ và mới như gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, Nguyễn Hữu Hoa, Nguyễn Hữu Quả cần được hỗ trợ của những người làm công tác bảo tồn, hướng dẫn về kỹ thuật, điều kiện bảo quản ván in khắc gỗ và tranh. Các nghệ nhân cũng cần được hỗ trợ về tài chính để mua thiết bị bảo quản ván in và tranh Đông Hồ.
KẾT LUẬN
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là một di sản văn hóa phi vật thể mang giá trị lịch sử, văn hóa, xã hội, là minh chứng cho sự sáng tạo và tài hoa của người Việt ở vùng Kinh Bắc, châu thổ Bắc Bộ, Việt Nam. Những sản phẩm của Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ là những bức tranh, phản ánh đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán, tín ngưỡng, triết lý nhân sinh của người Việt. Tuy nhiên, trước sự phát triển của kinh tế thị trường, chuyển đổi ngành nghề và thế hệ trẻ ít theo nghề, và những thay đổi trong thị hiếu tiêu dùng, Nghề làm tranh đang đứng trước nguy cơ mai một, cần phải bảo vệ khẩn cấp. Những thách thức về nhân lực, nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ và công tác bảo vệ di sản đặt ra yêu cầu cấp bách về các biện pháp bảo vệ và phát triển bền vững nghề thủ công truyền thống này.
Những nỗ lực từ cộng đồng nghệ nhân, chính quyền địa phương và các tổ chức liên quan đã có đóng góp quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, bảo vệ Nghề làm tranh Đông Hồ. Các biện pháp như chính sách, tài chính hỗ trợ sản xuất, quảng bá sản phẩm, tiêu thụ tranh, số hóa tư liệu, giáo dục và tăng cường nguồn nguyên liệu tự nhiên là những bước đi thiết yếu nhằm duy trì và phát triển nghề làm tranh trong bối cảnh đương đại. Trong thời gian tới, đảm bảo tính bền vững, cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa chính quyền, các nhà nghiên cứu, nghệ nhân và các tổ chức nghề nghiệp trong việc thúc đẩy thị trường tiêu thụ tranh, đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng về giá trị của di sản này. Việc bảo vệ và phát huy tranh dân gian Đông Hồ không chỉ là trách nhiệm của người dân Đông Khê, tỉnh Bắc Ninh, mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội nhằm gìn giữ một nghề thủ công truyền thống thể hiện sự sáng tạo tinh xảo, kỹ năng, và thẩm mỹ của người Việt./.
1. Nguyễn Vũ Tuấn Anh (2002), Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Nguyễn Đăng Chế (2008), Khai mạc hội thảo Bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ, Bài tham gia Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ”, Tài liệu lưu hành nội bộ.
3. Du Chi, Nguyễn Bá Vân (1978), Làng Đông Hồ với nghề làm tranh dân gian, trong sách “Nông thôn Việt Nam trong lịch sử” tập II, tr.276.
4. Vương Như Chiêm (1970), “Tư liệu về làng Hồ và tranh Đông Hồ”; Tạp chí Mỹ thuật, số 6.
5. Chu Quang Trứ (1974), Tranh Đông Hồ, in trong: Hà Bắc ngàn năm văn hiến, tập 3, Kỷ yếu Hội nghị truyền thống Đất nước con người, Ty Văn hoá xuất bản.
6. Văn Côn (2004), Tranh Đông Hồ nét văn hóa Kinh Bắc, Tạp chí Du lịch Việt Nam số 12/2004, tr. 20.
7. Trần Đồng (2005), Phương ngôn trên tranh Đông Hồ, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1 + 2, tr. 40 - 41.
8. Đỗ Đức (2005), “Năm Dậu: Trò chuyện về 7 bức tranh “già” dân gian”, tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 75/2005, tr. 12.
9. Đỗ Đức (2006), “Cách chơi tranh Tết ngày xưa”, Tạp chí Dân tộc và Thời đại, số 87, tr. 7, 35.
10. Đỗ Đức (2008), Những đặc điểm làm nên vẻ đẹp của tranh Đông Hồ, Tham luận tại Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát triển làng tranh dân gian Đông Hồ”, Tài liệu lưu hành nội bộ.
11. Henri Oger (tái bản 2009), Technique du peopỉe annamỉte- Mechanics and Crafts of the Annamites - Kỹ thuật của người An Nam, tập I, II, III, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Hậu, Đời sống văn hóa ở làng tranh Đông Hồ qua góc nhìn nhân học biểu tượng, Tạp chí Nghiên cứu văn hóa, số 5 tháng 6/2001.
13. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Lịch sử mĩ thuật Việt Nam, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.
14. Mai Thế Hởn (chủ biên), GS.TS. Hoàng Ngọc Hòa, PGS.TS. Vũ Văn Phúc (2003), Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa (Sách tham khảo), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Thái Lai (2001), Làng tranh Đông Hồ, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành văn hóa dân gian, Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian.
16. Trần Đình Luyện (2004), “Bắc Ninh đất trăm nghề”, Tạp chí Di sản văn hoá số 7, tr.78-81.
17. Làng nghề Bắc Ninh - tiềm năng và hội nhập (2005), Sở Kế hoạch Đầu tư - Tạp chí Thương mại.
18. Nhiều tác giả (1982), Địa chí Hà Bắc, Ty Văn hóa và thông tin Hà Bắc.
19. Đỗ Thị Tuyết Nhung (2004), Làng nghề chạm bạc Đồng Sâm ở Thái Bình, Luận văn Thạc sĩ Văn hoá học, lưu tại khoa sau Đại học, trường Đại học Văn hoá Hà Nội.
10. Philippe Le Failler (2001), “Tranh dân gian Việt Nam”, Tạp chí Xưa & Nay, 2001, số 84+85.
21. Rudolf Mayel, Hạnh phúc và thịnh vượng (Tranh tết ở làng Hồ), người dịch: Lê Bạch Tuyết, Tư liệu Viện Mỹ thuật, D22/cd79.
22. Sơ lược lịch sử dòng họ Nguyễn Đăng, thôn Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, 1991.
23. Trần Đình Luyện - Chủ biên (2016), Bảo tồn di sản văn hóa làng tranh dân gian Đông Hồ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bắc Ninh.
24. Phạm Công Thành (1972), “Tinh thần khoa học trong tranh dân gian”, Mỹ thuật, (13), tr 40.
25. Nguyễn Hữu Toàn (1995), “Tranh Đông Hồ và đình tranh”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 7/1995, tr 43-45.
26. Nguyễn Trân (1968), “Bước đầu tìm hiểu ỷ nghĩa và nguồn gôc xuất hiện tranh dân gian Việt Nam”, Tạp chí Mỹ thuật số 1/1968.
27. Đỗ Trọng Vĩ (1997), Bắc Ninh dư địa chí, Nxb. Văn hóa thông tin.
1 Đông Hồ theo chữ Hán nghĩa là Hồ ở phía đông.
[2] Ban Chấp hành Đảng bộ xã Song Hồ (2002), sđd.
[3] Nguyễn Thái Lai (2002), Làng tranh Đông Hồ, Trường Đại học Mỹ thuật, Viện Mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, tr. 13.
[4] Địa chỉ: 43 wenue Rockefeller 69003 Lyon France; email: andree.pascal @yahoo.fr.
[5] Từ Thị Loan (2012), tư liệu điền dã.
[6] Dẫn theo Từ Thị Loan (2016), Di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, Nxb. Lao động, tr. 44.
[7] Vũ Tú Quyên (2010), bđd, tr. 7.
[8] Nguyễn Thuần (2007), Ai về làng mái Đông Hồ - Nghiên cứu, tiểu luận, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, tr. 59.
[9] Tham khảo thêm: Bảo tồn di sản văn hóa làng tranh dân gian Đông Hồ, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh, 2016, tr.8.